*Bài viết dưới dạng song ngữ Việt - Anh
Đàn ông yêu thích cái đẹp, phụ nữ mong muốn giàu sang và những điều phi
lý khác
Vào ngày hẹn
hò đầu tiên, Mia và Josh đã có cuộc trò chuyện cứ như thể họ đã quen nhau từ nhiều năm trước. Josh yêu thích tính cách dí dỏm của
Mia còn nàng thì say mê sự nồng nhiệt và nụ cười luôn thường trực trên môi của
Josh. Mối quan hệ của họ đang ở giai đoạn đầy hứa hẹn, thì một lần nữa những
nghi ngờ lại tiến gần hơn đến với cả hai người. Josh là người chăm sóc chính
cho con của mình sau sự đổ vỡ hôn nhân trước đó, và vấn đề tài chính của anh ấy
thì càng mờ nhạt. Nhưng những điều này thì không hề làm cho Mia thực sự bận tâm
bởi vì tính cách của Josh đã bù đắp tất cả cho điều đó. Tuy nhiên, Josh vẫn
không phải là mẫu người của Mia – cô ấy yêu thích những chàng trai trẻ tuổi hơn
mình, thêm vào đó phải thể thao và đẹp trai nữa. Còn Josh thì lại mong muốn một
người phụ nữ có thu nhập cao cùng với tham vọng, địa vị và trình độ học vấn
cao, một tiến sĩ theo đúng như lý tưởng (hoặc cả hai). Nghề thạc sĩ văn chương
của Mia chỉ dính líu một chút. Cuối cùng thì nó cũng là tiêu chuẩn để người đàn
ông trở thành những người xứng đáng được kết hôn.
On their first date, Mia and Josh talked as if they’d known each other
for years. Josh loved Mia’s wit; Mia delighted in Josh’s warmth and ready
smile. Their relationship blossomed, but doubts crept up on both of them now
and again. Josh was the primary caregiver for a child from a previous marriage,
and his financial prospects were dim. That didn’t really bother Mia, since
Josh’s personality more than made up for it. Still, he wasn’t her usual ‘type’
– the type that was much younger than her, plus athletic and handsome to boot.
Josh, meanwhile, had been dreaming of a cashed-up woman with high ambitions,
status and education, ideally with a PhD (or two). Mia’s mere MA was a bit of a
sticking point. It was the norm, after all, for men to be the ones to ‘marry
up’.
Chuyện này nghe có vẻ kỳ lạ, và nó nên là: Tôi đã tạo ra
một giai thoại về cảnh tình dục khác giới sẽ trông như thế nào trong 100 năm nữa.
Hiện nay, mong muốn có một bạn tình trẻ, hấp dẫn ở người khác giới có khuynh hướng
phổ biến ở nam giới hơn là nữ giới.Trong khi đó, nữ giới thì có khả năng sẽ ưu
tiên tiền bạc và địa vị hơn là tuổi trẻ và nhan sắc. Tại sao lại như vậy?
This scenario probably
sounds strange, and it should: I’ve invented an anecdote about how the
heterosexual dating scene might look 100 years in the future. Currently, the
desire for a young, attractive partner of the opposite sex tends to be more
prevalent in men than in women. Women, meanwhile, are more likely to prioritise
money and status over youth and beauty. Why?
Nhiều nhà tâm lý học tiến hóa đã đặt khuynh hướng này xuống
khả năng tiến triển sinh học bẩm sinh. Họ đã tranh luận rằng nữ giới có một sự
thôi thúc nguyên sinh bám lấy những người đàn ông giàu có để cung cấp cho con
cái của họ trong thời kì mang thai và nuôi dạy con. Trái lại với điều đó thì
nam giới chỉ quan tâm đến khả năng sinh sản của nữ giới, mà nhan sắc và tuổi trẻ
đáp ứng như những gợi ý hữu ích. Trong quá khứ xa xưa, hành vi này đã được sửa
lại cho phù hợp, và vì vậy mà sự tiến hóa đã chọn lọc và mã hóa nó trong gen của
chúng ta mãi mãi. Nghi thức giao phối hiện đại chắc chắn trông sẽ rất khác với
những gì mà tổ tiên chúng ta đã có. Tuy
nhiên, những chiến lược tình dục giống nhau được sử dụng bởi tổ tiên của chúng
ta, ngày nay được thực hiện bằng sự ép buộc không thể kiềm chế giống như những
gì mà nhà tâm lý học David Buss đã viết trong “The evolution of desire” (2003).
“ Sau tất cả thì tâm lý học giao phối tiến hóa của chúng ta cũng đã diễn ra
trong thế giới hiện đại bởi vì nó là tâm lý học giao phối duy nhất mà con người
sở hữu được.” (Có rất ít các nghiên cứu lịch sử hay giao thoa văn hóa nào nói về
sự ưa thích bạn đời là đồng tính luyến ái; những câu hỏi như vậy rõ rang rất
quan trọng, nhưng thật đáng buồn vẫn chưa có đủ dữ liệu để có thể kiểm chứng
chúng một cách đúng đắn)
Many evolutionary
psychologists put this trend down to the power of innate biological drives.
Their argument is that women have a primeval urge to hang on to wealthy men to
provide for their children during the long period of pregnancy and
childrearing. Men, meanwhile, are mostly concerned about a woman’s fertility,
for which beauty and youth serve as helpful cues. In the distant past, this
behaviour was adaptive, and so evolution selected and encoded it in our
genes, forever. Sure, the rituals of modern mating look very different to those of our
ancestors. ‘Nevertheless, the same sexual strategies used by our ancestors
operate today with unbridled force,’ as the psychologist David Buss put it
in The Evolution of Desire(2003). ‘Our evolved psychology of mating, after all, plays out in the
modern world because it is the only mating psychology we mortals possess.’
(There’s little historical or intercultural research on LGBT mate preferences;
such questions are clearly important, but sadly there isn’t yet sufficient data
to examine them properly.)
Tuy nhiên,
đã có một sự thay đổi được xây dựng lên trong vai trò giới tính suốt 50 năm qua.
Gần đây nhất là vào những năm 1980, tiếp viên hàng không nữ ở Hoa Kỳ có thể sẽ
bị sa thải nếu họ kết hôn, và quyền bầu cử đối với phụ nữ không được áp dụng
cho tới những năm 1990. Liệu có phải chúng ta cũng không mong chờ sự thay đổi
trong mối quan hệ này để làm giảm bớt sự lựa chọn bạn tình của đàn ông và phụ nữ
thẳng? Hay chúng ta vẫn tiếp tục phó mặc cho số mệnh sinh học như những nhà tâm
lý học tiến hóa đã tuyên bố?
However, there has been a
tectonic shift in gender roles over the past 50 years. As recently as the
1980s, female flight attendants in the United States could be fired if they got
married, and women’s right to vote wasn’t universally enforced in Switzerland
until 1990. Wouldn’t we expect these changing relationship mores to make a dent
in the mating preferences of straight men and women? Or are we still at the
mercy of our biological destiny, as evolutionary psychologists claim?
Kết quả từ
cuộc nghiên cứu là rất rõ ràng: Sự lựa chọn bạn tình ở nam giới và nữ giới ngày
càng giống nhau. Xu hướng này gắn liền trực tiếp tới sự gia tăng về mặt bình đẳng
giới, vì phụ nữ được tiếp cận nhiều hơn với các nguồn lực và cơ hội trong kinh
doanh, chính trị và giáo dục. Ở nhiều quốc gia bất bình đẳng giới, chẳng hạn
như Thổ Nhĩ Kỳ, nữ giới coi trọng khả năng kiếm được tiền của bạn tình gấp đôi
so với những phụ nữ ở hầu hết các quốc gia bình đẳng giới, ví dụ như Phần Lan.
Nó cũng tương tự như Josh và Mia, đàn ông Phần Lan có nhiều khả năng sẽ lựa chọn
bạn tình dựa vào trình độ học vấn cao hơn là với phụ nữ Phần Lan.
The results from the research are clear: mating preferences among men and women look
increasingly similar. The trend is directly tied to increasing gender equality,
as women gain greater access to resources and opportunities in business,
politics and education. In more gender-unequal nations, such as Turkey, women
rate the earning potential of partners as twice as important compared
with women in the most gender-equal nations, such as Finland. As with Josh and
Mia, Finnish men are now more likely than Finnish women to select partners based
on their high level of education.
Tất nhiên,
chủ nghĩa phân biệt giới tính luôn tồn tại trong mọi xã hội, mức độ tổng thể về
bình đẳng giới của một quốc gia không nhất thiết phải biến thành thái độ bình đẳng
giới giữa các cá nhân. Nhưng nếu sự lựa chọn bạn tình được hình thành trước về
mặt sinh học, thì chủ nghĩa phân biệt giới tính cá nhân nên có bất kỳ sự tác động
nào. Tuy nhiên, nghiên cứu được thực hiện trên 9 quốc gia đã chứng minh điều
ngược lại. Nam giới càng quan tâm đến bất bình đẳng giới thì họ càng thích những
phụ nữ trẻ tuổi và hấp dẫn còn phụ nữ để ý tới bất bình đẳng giới thì họ sẽ
mong muốn có những người bạn tình giàu sang và có địa vị xã hội.
Of course, sexism varies
within each society, and a nation’s overall level of gender-equality doesn’t
necessarily translate to gender-equal attitudes among individuals. But if
mating preferences are biologically predetermined, individual sexism shouldn’t
have an impact. However, research carried out in nine nations proves the opposite. The more
gender-unequal men’s personal attitudes, the more they prefer qualities in
women such as youth and attractiveness; and the more gender-unequal women’s
attitudes, the more they prefer qualities in men such as money and status.
Bằng chứng này đã chỉ ra một vài sai lầm
nghiêm trọng trong chuyện kể của các nhà tâm lý học tiến hóa. Nếu gen quyết
định sự lựa chọn bạn tình, bằng cách nào mà những bản năng này có thể ăn mòn
theo sự bình đẳng giới của cá nhân và xã hội?
This evidence points to some serious flaws in the evolutionary
psychologists’ narrative. If genes determine our mating preferences, how is it
that these supposedly hardwired instincts erode in line with societies’ and
individual’s gender-egalitarianism?
Để cho công bằng thì các
nhà tâm lý học tiến hóa đã thừa nhận tằng yếu tố văn hóa và phong tục địa
phương có thể ảnh hướng tới cách mà con người lựa chọn bạn tình. Nhưng bình
đẳng giới không được coi là một trong số những yếu tố này, vì ngay cả trong xã
hội bình đẳng giới tính, sự khác biệt của việc lựa chọn giữa nam giới và nữ
giới cũng chỉ giảm đi chứ không phải là mất hẳn. Tuy nhiên, một sự phản công là
bằng chứng của một khoảng trống dài thực chất nó ủng hộ trường hợp của chúng
ta: sự khác biệt chỉ được thu hẹp đến mức đạt được sự bình đẳng giới. Để loại
bỏ được nó thì chúng ta phải có được sự bình đẳng giới hoàn toàn, cái mà chưa
từng tồn tại.
To be fair, evolutionary psychologists acknowledge that cultural factors
and local customs can affect how people choose their partners. But gender
equality isn’t considered to be one of these factors, since even in relatively
gender-equal societies, the gap between men and women’s preferences is
only reduced, not eliminated. However, the counter-punch is that
evidence of a lingering gap actually supports our case: the difference is
only narrowed to the extent that gender equality is attained. Getting rid of it
entirely would require complete gender equality, which doesn’t yet exist.
Thật đáng tiếc, vai trò giới tính
truyền thống vẫn tồn tại ngay cả trong xã hội rất bình đẳng. Trong một cuộc
nghiên cứu của Đan Mạch, những người chồng có vợ kiếm được nhiều tiền hơn họ
thì thường có khả năng sử dụng thuốc rối loạn cương dương hơn so với những
người chồng khác. Một lý giải khác nữa là những người chồng cảm thấy bị áp lực
khỉ phải thể hiện sự mạnh mẽ của mình bởi vì họ không thể khẳng định vai trò
“trụ cột gia đình” của mình, ở một khía cạnh khác thì nó là sự mất đi địa vị là
người chủ gia đình bằng cách nào đó nó dẫn đến sự bất lực. Một nghiên cứu khác
của Hoa Kỳ, phụ nữ độc thân đã hạ thấp mục tiêu nghề nghiệp và giảm bớt sự
quyết đoán với hy vọng rằng họ sẽ trở nên hấp dẫn hơn đối với nam giới. Tuy
nhiên, nếu tầm quan trọng của việc nam giới để ý tới trình độ học vấn và khả
năng kiếm tiến của nữ giới tiếp tục tăng thì những chiến thuật này không còn
hiệu quả nữa.
Regrettably, traditional
gender roles persist even in very egalitarian societies. In one Danish study, husbands whose wives out-earned them were more likely than other
husbands to use erectile dysfunction medication. One interpretation is that the
husbands felt under pressure to exhibit their virility, because they couldn’t
claim the role of ‘provider’; another view was that the loss of breadwinner
status somehow led to impotence. In another study in the US, single women downplayed their career goals and toned
down their assertiveness in the hope of making themselves more desirable to
men. However, if the importance that men attribute to women’s good education
and earning prospects continues to grow, these tactics might eventually cease
to be effective.
Điều gì sẽ xảy ra nếu
một xã hội thực sự đạt được về bình đẳng giới? Liệu phụ nữ và đàn ông có sở
thích giống hệt nhau về việc lựa chọn bạn tình? Linh cảm của tôi đó là sự lựa
chọn của nam giới và nữ giới không bao giờ có được điểm chung hoàn toàn. Sự
khác biệt chính có khả năng làm giảm nhu cầu cho con bú sau khi sinh – một hoạt
động tốn nhiều năng lượng, tốn nhiều thời gian, và khá khó để có thể hòa nhập
với công việc được trả công, ít nhất là công việc được kết cấu. Ngụ ý là phụ nữ
sẽ tìm cách thay thế sự mất mát về thu nhập bằng cách chọn lựa những người
chồng có triển vọng tài chính tốt. Quyết định này sẽ không có gì để làm cùng
với sự thôi thúc nguyên sinh cho một người bảo trợ nam giới tuyệt vời, tuy
nhiên, nó sẽ được hướng dẫn bởi những tính toán hợp lý về nhu cầu trong tương
lai. Hơn nữa, chính sách xã hội tiến bộ, sự thay đổi nơi làm việc, và sự tham
gia nhiều hơn của người cha trong việc chăm sóc trẻ em có thể giảm bớt áp lực
sự nghiệp.
What if a society actually did achieve perfect gender equality? Would
women and men hold essentially identical partner preferences? My hunch is that
women’s and men’s choices might never completely converge. The key difference
is likely to come down to the demands of breastfeeding following the birth of a
child – an activity that’s energy-intensive, time-consuming, and quite difficult
to integrate with paid work, at least as work is currently structured. The
implication is that women will seek to replace this anticipated loss of income
by choosing husbands with good earning prospects. This decision will have
little to do to with some primeval urge for a great male protector, however; it
will be guided by rational calculations about future needs. Moreover,
progressive social policy, changes to the workplace, and greater participation
of fathers in childcare could all mitigate such career-compromising pressures.
Những sinh viên của tôi đôi lúc có hỏi tôi
liệu rằng việc lựa chọn bạn tình bình đẳng giới có đáng mong muốn hay không. Họ
dường như lo ngại rằng sự bình đẳng như vậy có thể dập tắt ngọn lửa tình yêu từ
cuộc sống của chúng ta. Một rủi ro khác nữa đó là việc lựa chọn bạn tình có thể
dẫn tới sự bình đẳng hơn trong hôn nhân, làm giảm sự bất bình đẳng về kinh tế.
Nhưng theo báo cáo giới tính mới nhất năm 2017, chúng ta cũng không cần phải
quá lo lắng. Với tỷ lệ thay đổi như hiện này, thì nó sẽ là khoảng thời gian
trước khi Josh và Mia gặp nhau: Chúng ta có ít nhất là 100 năm nữa mới có thể
đạt được sự cân bằng về giới tính.
My students sometimes ask me whether gender-equal partner preferences
would be desirable. They seem concerned that such equality could snuff out the
spark from our love lives. Another risk is that levelling out mating
preferences could lead to more marriages of equals, which could in turn
entrench economic inequality. But according to the latest gender-gap report for 2017, there’s little reason for worry. Given
the current rate of change, it will be some time before Josh and Mia get
together: we have at least another 100 years to wait before gender parity is
achieved.
----------
Tác giả: Marcel
Zentner
Link bài gốc: https://aeon.co/ideas/men-want-beauty-women-want-wealth-and-other-unscientific-tosh
(*) Bản quyền
bài dịch thuộc về ToMo. Khi chia sẻ, cần phải trích dẫn nguồn đầy đủ tên tác giả
và nguồn là "Dịch Giả: Nguyễn Giang My - Nguồn: ToMo: Learn Something New". Các bài viết trích nguồn không đầy đủ, ví dụ: "Theo
ToMo" hoặc khác đều không được chấp nhận và phải gỡ bỏ.
(**) Follow
Facebook ToMo: Learn Something New để đọc các bài dịch song ngữ và cập nhật thông tin bổ ích hàng
ngày!
(***) Trở thành
Cộng tác viên, Thực tập sinh Part-time để rèn luyện ngoại ngữ và đóng góp tri
thức cho cộng đồng tại: http://bit.ly/ToMo-hiring.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét