Thứ Tư, 18 tháng 4, 2018

Đàn ông cái đẹp, phụ nữ muốn giàu sang và những điều phi lý khác

*Bài viết dưới dạng song ngữ Việt - Anh
Đàn ông yêu thích cái đẹp, phụ nữ mong muốn giàu sang và những điều phi lý khác
Vào ngày hẹn hò đầu tiên, Mia và Josh đã cuộc trò chuyện cứ như thể họ đã quen nhau từ nhiều năm trước. Josh yêu thích tính cách dí dỏm của Mia còn nàng thì say mê sự nồng nhiệt và nụ cười luôn thường trực trên môi của Josh. Mối quan hệ của họ đang ở giai đoạn đầy hứa hẹn, thì một lần nữa những nghi ngờ lại tiến gần hơn đến với cả hai người. Josh là người chăm sóc chính cho con của mình sau sự đổ vỡ hôn nhân trước đó, và vấn đề tài chính của anh ấy thì càng mờ nhạt. Nhưng những điều này thì không hề làm cho Mia thực sự bận tâm bởi vì tính cách của Josh đã bù đắp tất cả cho điều đó. Tuy nhiên, Josh vẫn không phải là mẫu người của Mia – cô ấy yêu thích những chàng trai trẻ tuổi hơn mình, thêm vào đó phải thể thao và đẹp trai nữa. Còn Josh thì lại mong muốn một người phụ nữ có thu nhập cao cùng với tham vọng, địa vị và trình độ học vấn cao, một tiến sĩ theo đúng như lý tưởng (hoặc cả hai). Nghề thạc sĩ văn chương của Mia chỉ dính líu một chút. Cuối cùng thì nó cũng là tiêu chuẩn để người đàn ông trở thành những người xứng đáng được kết hôn.
On their first date, Mia and Josh talked as if they’d known each other for years. Josh loved Mia’s wit; Mia delighted in Josh’s warmth and ready smile. Their relationship blossomed, but doubts crept up on both of them now and again. Josh was the primary caregiver for a child from a previous marriage, and his financial prospects were dim. That didn’t really bother Mia, since Josh’s personality more than made up for it. Still, he wasn’t her usual ‘type’ – the type that was much younger than her, plus athletic and handsome to boot. Josh, meanwhile, had been dreaming of a cashed-up woman with high ambitions, status and education, ideally with a PhD (or two). Mia’s mere MA was a bit of a sticking point. It was the norm, after all, for men to be the ones to ‘marry up’. 
Chuyện này nghe có vẻ kỳ lạ, và nó nên là: Tôi đã tạo ra một giai thoại về cảnh tình dục khác giới sẽ trông như thế nào trong 100 năm nữa. Hiện nay, mong muốn có một bạn tình trẻ, hấp dẫn ở người khác giới có khuynh hướng phổ biến ở nam giới hơn là nữ giới.Trong khi đó, nữ giới thì có khả năng sẽ ưu tiên tiền bạc và địa vị hơn là tuổi trẻ và nhan sắc. Tại sao lại như vậy?
This scenario probably sounds strange, and it should: I’ve invented an anecdote about how the heterosexual dating scene might look 100 years in the future. Currently, the desire for a young, attractive partner of the opposite sex tends to be more prevalent in men than in women. Women, meanwhile, are more likely to prioritise money and status over youth and beauty. Why?
Nhiều nhà tâm lý học tiến hóa đã đặt khuynh hướng này xuống khả năng tiến triển sinh học bẩm sinh. Họ đã tranh luận rằng nữ giới có một sự thôi thúc nguyên sinh bám lấy những người đàn ông giàu có để cung cấp cho con cái của họ trong thời kì mang thai và nuôi dạy con. Trái lại với điều đó thì nam giới chỉ quan tâm đến khả năng sinh sản của nữ giới, mà nhan sắc và tuổi trẻ đáp ứng như những gợi ý hữu ích. Trong quá khứ xa xưa, hành vi này đã được sửa lại cho phù hợp, và vì vậy mà sự tiến hóa đã chọn lọc và mã hóa nó trong gen của chúng ta mãi mãi. Nghi thức giao phối hiện đại chắc chắn trông sẽ rất khác với những gì mà tổ tiên chúng ta đã có.  Tuy nhiên, những chiến lược tình dục giống nhau được sử dụng bởi tổ tiên của chúng ta, ngày nay được thực hiện bằng sự ép buộc không thể kiềm chế giống như những gì mà nhà tâm lý học David Buss đã viết trong “The evolution of desire” (2003). “ Sau tất cả thì tâm lý học giao phối tiến hóa của chúng ta cũng đã diễn ra trong thế giới hiện đại bởi vì nó là tâm lý học giao phối duy nhất mà con người sở hữu được.” (Có rất ít các nghiên cứu lịch sử hay giao thoa văn hóa nào nói về sự ưa thích bạn đời là đồng tính luyến ái; những câu hỏi như vậy rõ rang rất quan trọng, nhưng thật đáng buồn vẫn chưa có đủ dữ liệu để có thể kiểm chứng chúng một cách đúng đắn)
Many evolutionary psychologists put this trend down to the power of innate biological drives. Their argument is that women have a primeval urge to hang on to wealthy men to provide for their children during the long period of pregnancy and childrearing. Men, meanwhile, are mostly concerned about a woman’s fertility, for which beauty and youth serve as helpful cues. In the distant past, this behaviour was adaptive, and so evolution selected and encoded it in our genes, forever. Sure, the rituals of modern mating look very different to those of our ancestors. ‘Nevertheless, the same sexual strategies used by our ancestors operate today with unbridled force,’ as the psychologist David Buss put it in The Evolution of Desire(2003). ‘Our evolved psychology of mating, after all, plays out in the modern world because it is the only mating psychology we mortals possess.’ (There’s little historical or intercultural research on LGBT mate preferences; such questions are clearly important, but sadly there isn’t yet sufficient data to examine them properly.)
Tuy nhiên, đã có một sự thay đổi được xây dựng lên trong vai trò giới tính suốt 50 năm qua. Gần đây nhất là vào những năm 1980, tiếp viên hàng không nữ ở Hoa Kỳ có thể sẽ bị sa thải nếu họ kết hôn, và quyền bầu cử đối với phụ nữ không được áp dụng cho tới những năm 1990. Liệu có phải chúng ta cũng không mong chờ sự thay đổi trong mối quan hệ này để làm giảm bớt sự lựa chọn bạn tình của đàn ông và phụ nữ thẳng? Hay chúng ta vẫn tiếp tục phó mặc cho số mệnh sinh học như những nhà tâm lý học tiến hóa đã tuyên bố?
However, there has been a tectonic shift in gender roles over the past 50 years. As recently as the 1980s, female flight attendants in the United States could be fired if they got married, and women’s right to vote wasn’t universally enforced in Switzerland until 1990. Wouldn’t we expect these changing relationship mores to make a dent in the mating preferences of straight men and women? Or are we still at the mercy of our biological destiny, as evolutionary psychologists claim?
Kết quả từ cuộc nghiên cứu là rất rõ ràng: Sự lựa chọn bạn tình ở nam giới và nữ giới ngày càng giống nhau. Xu hướng này gắn liền trực tiếp tới sự gia tăng về mặt bình đẳng giới, vì phụ nữ được tiếp cận nhiều hơn với các nguồn lực và cơ hội trong kinh doanh, chính trị và giáo dục. Ở nhiều quốc gia bất bình đẳng giới, chẳng hạn như Thổ Nhĩ Kỳ, nữ giới coi trọng khả năng kiếm được tiền của bạn tình gấp đôi so với những phụ nữ ở hầu hết các quốc gia bình đẳng giới, ví dụ như Phần Lan. Nó cũng tương tự như Josh và Mia, đàn ông Phần Lan có nhiều khả năng sẽ lựa chọn bạn tình dựa vào trình độ học vấn cao hơn là với phụ nữ Phần Lan.
The results from the research are clear: mating preferences among men and women look increasingly similar. The trend is directly tied to increasing gender equality, as women gain greater access to resources and opportunities in business, politics and education. In more gender-unequal nations, such as Turkey, women rate the earning potential of partners as twice as important compared with women in the most gender-equal nations, such as Finland. As with Josh and Mia, Finnish men are now more likely than Finnish women to select partners based on their high level of education.
Tất nhiên, chủ nghĩa phân biệt giới tính luôn tồn tại trong mọi xã hội, mức độ tổng thể về bình đẳng giới của một quốc gia không nhất thiết phải biến thành thái độ bình đẳng giới giữa các cá nhân. Nhưng nếu sự lựa chọn bạn tình được hình thành trước về mặt sinh học, thì chủ nghĩa phân biệt giới tính cá nhân nên có bất kỳ sự tác động nào. Tuy nhiên, nghiên cứu được thực hiện trên 9 quốc gia đã chứng minh điều ngược lại. Nam giới càng quan tâm đến bất bình đẳng giới thì họ càng thích những phụ nữ trẻ tuổi và hấp dẫn còn phụ nữ để ý tới bất bình đẳng giới thì họ sẽ mong muốn có những người bạn tình giàu sang và có địa vị xã hội.
Of course, sexism varies within each society, and a nation’s overall level of gender-equality doesn’t necessarily translate to gender-equal attitudes among individuals. But if mating preferences are biologically predetermined, individual sexism shouldn’t have an impact. However, research carried out in nine nations proves the opposite. The more gender-unequal men’s personal attitudes, the more they prefer qualities in women such as youth and attractiveness; and the more gender-unequal women’s attitudes, the more they prefer qualities in men such as money and status.
Bằng chứng này đã chỉ ra một vài sai lầm nghiêm trọng trong chuyện kể của các nhà tâm lý học tiến hóa. Nếu gen quyết định sự lựa chọn bạn tình, bằng cách nào mà những bản năng này có thể ăn mòn theo sự bình đẳng giới của cá nhân và xã hội?
This evidence points to some serious flaws in the evolutionary psychologists’ narrative. If genes determine our mating preferences, how is it that these supposedly hardwired instincts erode in line with societies’ and individual’s gender-egalitarianism?
Để cho công bằng thì các nhà tâm lý học tiến hóa đã thừa nhận tằng yếu tố văn hóa và phong tục địa phương có thể ảnh hướng tới cách mà con người lựa chọn bạn tình. Nhưng bình đẳng giới không được coi là một trong số những yếu tố này, vì ngay cả trong xã hội bình đẳng giới tính, sự khác biệt của việc lựa chọn giữa nam giới và nữ giới cũng chỉ giảm đi chứ không phải là mất hẳn. Tuy nhiên, một sự phản công là bằng chứng của một khoảng trống dài thực chất nó ủng hộ trường hợp của chúng ta: sự khác biệt chỉ được thu hẹp đến mức đạt được sự bình đẳng giới. Để loại bỏ được nó thì chúng ta phải có được sự bình đẳng giới hoàn toàn, cái mà chưa từng tồn tại.
To be fair, evolutionary psychologists acknowledge that cultural factors and local customs can affect how people choose their partners. But gender equality isn’t considered to be one of these factors, since even in relatively gender-equal societies, the gap between men and women’s preferences is only reduced, not eliminated. However, the counter-punch is that evidence of a lingering gap actually supports our case: the difference is only narrowed to the extent that gender equality is attained. Getting rid of it entirely would require complete gender equality, which doesn’t yet exist.
Thật đáng tiếc, vai trò giới tính truyền thống vẫn tồn tại ngay cả trong xã hội rất bình đẳng. Trong một cuộc nghiên cứu của Đan Mạch, những người chồng có vợ kiếm được nhiều tiền hơn họ thì thường có khả năng sử dụng thuốc rối loạn cương dương hơn so với những người chồng khác. Một lý giải khác nữa là những người chồng cảm thấy bị áp lực khỉ phải thể hiện sự mạnh mẽ của mình bởi vì họ không thể khẳng định vai trò “trụ cột gia đình” của mình, ở một khía cạnh khác thì nó là sự mất đi địa vị là người chủ gia đình bằng cách nào đó nó dẫn đến sự bất lực. Một nghiên cứu khác của Hoa Kỳ, phụ nữ độc thân đã hạ thấp mục tiêu nghề nghiệp và giảm bớt sự quyết đoán với hy vọng rằng họ sẽ trở nên hấp dẫn hơn đối với nam giới. Tuy nhiên, nếu tầm quan trọng của việc nam giới để ý tới trình độ học vấn và khả năng kiếm tiến của nữ giới tiếp tục tăng thì những chiến thuật này không còn hiệu quả nữa.
Regrettably, traditional gender roles persist even in very egalitarian societies. In one Danish study, husbands whose wives out-earned them were more likely than other husbands to use erectile dysfunction medication. One interpretation is that the husbands felt under pressure to exhibit their virility, because they couldn’t claim the role of ‘provider’; another view was that the loss of breadwinner status somehow led to impotence. In another study in the US, single women downplayed their career goals and toned down their assertiveness in the hope of making themselves more desirable to men. However, if the importance that men attribute to women’s good education and earning prospects continues to grow, these tactics might eventually cease to be effective.
Điều gì sẽ xảy ra nếu một xã hội thực sự đạt được về bình đẳng giới? Liệu phụ nữ và đàn ông có sở thích giống hệt nhau về việc lựa chọn bạn tình? Linh cảm của tôi đó là sự lựa chọn của nam giới và nữ giới không bao giờ có được điểm chung hoàn toàn. Sự khác biệt chính có khả năng làm giảm nhu cầu cho con bú sau khi sinh – một hoạt động tốn nhiều năng lượng, tốn nhiều thời gian, và khá khó để có thể hòa nhập với công việc được trả công, ít nhất là công việc được kết cấu. Ngụ ý là phụ nữ sẽ tìm cách thay thế sự mất mát về thu nhập bằng cách chọn lựa những người chồng có triển vọng tài chính tốt. Quyết định này sẽ không có gì để làm cùng với sự thôi thúc nguyên sinh cho một người bảo trợ nam giới tuyệt vời, tuy nhiên, nó sẽ được hướng dẫn bởi những tính toán hợp lý về nhu cầu trong tương lai. Hơn nữa, chính sách xã hội tiến bộ, sự thay đổi nơi làm việc, và sự tham gia nhiều hơn của người cha trong việc chăm sóc trẻ em có thể giảm bớt áp lực sự nghiệp.
What if a society actually did achieve perfect gender equality? Would women and men hold essentially identical partner preferences? My hunch is that women’s and men’s choices might never completely converge. The key difference is likely to come down to the demands of breastfeeding following the birth of a child – an activity that’s energy-intensive, time-consuming, and quite difficult to integrate with paid work, at least as work is currently structured. The implication is that women will seek to replace this anticipated loss of income by choosing husbands with good earning prospects. This decision will have little to do to with some primeval urge for a great male protector, however; it will be guided by rational calculations about future needs. Moreover, progressive social policy, changes to the workplace, and greater participation of fathers in childcare could all mitigate such career-compromising pressures.
Những sinh viên của tôi đôi lúc có hỏi tôi liệu rằng việc lựa chọn bạn tình bình đẳng giới có đáng mong muốn hay không. Họ dường như lo ngại rằng sự bình đẳng như vậy có thể dập tắt ngọn lửa tình yêu từ cuộc sống của chúng ta. Một rủi ro khác nữa đó là việc lựa chọn bạn tình có thể dẫn tới sự bình đẳng hơn trong hôn nhân, làm giảm sự bất bình đẳng về kinh tế. Nhưng theo báo cáo giới tính mới nhất năm 2017, chúng ta cũng không cần phải quá lo lắng. Với tỷ lệ thay đổi như hiện này, thì nó sẽ là khoảng thời gian trước khi Josh và Mia gặp nhau: Chúng ta có ít nhất là 100 năm nữa mới có thể đạt được sự cân bằng về giới tính.
My students sometimes ask me whether gender-equal partner preferences would be desirable. They seem concerned that such equality could snuff out the spark from our love lives. Another risk is that levelling out mating preferences could lead to more marriages of equals, which could in turn entrench economic inequality. But according to the latest gender-gap report for 2017, there’s little reason for worry. Given the current rate of change, it will be some time before Josh and Mia get together: we have at least another 100 years to wait before gender parity is achieved.
----------

Tác giả: Marcel Zentner
Link bài gốc: https://aeon.co/ideas/men-want-beauty-women-want-wealth-and-other-unscientific-tosh
Dịch giả: Nguyễn Giang My - ToMo: Learn Something New
(*) Bản quyền bài dịch thuộc về ToMo. Khi chia sẻ, cần phải trích dẫn nguồn đầy đủ tên tác giả và nguồn là "Dịch Giả: Nguyễn Giang My - Nguồn: ToMo: Learn Something New". Các bài viết trích nguồn không đầy đủ, ví dụ: "Theo ToMo" hoặc khác đều không được chấp nhận và phải gỡ bỏ.

(**) Follow Facebook ToMo: Learn Something New để đọc các bài dịch song ngữ và cập nhật thông tin bổ ích hàng ngày!

(***) Trở thành Cộng tác viên, Thực tập sinh Part-time để rèn luyện ngoại ngữ và đóng góp tri thức cho cộng đồng tại: http://bit.ly/ToMo-hiring.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Là em _ Am I

  Là Em It ’s you M ình phải là đứa trẻ ngoan. Mình phải là học sinh đứng nhất.  Mình phải là thủ khoa tốt nghiệp.  Mình phải là nhân vi...